Kết quả thực hiện chuyên đề: “Ứng dụng tiến bộ KHCN hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống Hàu Thái Bình Dương (Crasostrea gigas ) tại Nghệ An”

Thứ tư - 30/12/2020 23:03 854 0
Th.S Trương Văn Toản
Trung tâm giống thủy sản Nghệ An
1. Đặt vấn đề.
Những năm gần đây nghề nuôi trồng thủy sản đã phát triển nhanh chóng, đa dạng hóa cả về hình thức cũng như đối tượng nuôi. Trong đó, động vật thân mềm được xem như là đối tượng rất có tiềm năng trong nuôi trồng thủy sản và đang thu hút sự quan tâm của nhiều người. Hàu Thái Bình Dương (Crasostrea gigas Thunberg 1793) là loại động vật thân mềm thuộc lớp hai mảnh võ có nguồn gốc từ Nhật Bản, do có khả năng thích ứng với sự biến động của môi trường và giá trị kinh tế cao nên hiện nay chúng được nuôi ở hơn 60 quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Pháp, Mỹ, Canada…So với các loại Hàu bản địa thì Hàu Thái Bình Dương có nhiều điểm ưu việt hơn như kích thước và khối lượng cơ thể lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ thịt cao và ngon. Thịt Hàu tươi vừa có giá trị dinh dưỡng cao vừa có giá trị trong y dược nên nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm từ Hàu Thái Bình Dương ngày càng lớn.
Việt Nam là một trong những nước có sản lượng nuôi động vật thân mềm lớn trên thế giới. Theo FAO (2010), một trong mười nước dẫn đầu thế giới về sản lượng nuôi thì Việt Nam đứng hàng thứ tám, chính vì vậy Động vật thân mềm hiện đang được xem là đối tượng chủ lực trong chiến lược phát triển nuôi biển của nước ta. Hiện nay, phong trào nuôi các loài động vật thân mềm  nói chung và loài hai mảnh vỏ nói riêng đặc biệt là Hàu Thái Bình Dương đang phát triển mạnh và rộng khắp trải dài từ Bắc vào Nam trong đó có các tỉnh như Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu... Tuy nhiên, vẫn không đủ số lượng lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do Hàu Thái Bình Dương không phải là loài bản địa nên việc nuôi thương phẩm hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn giống nhân tạo, trong khi đó việc đáp ứng cũng như chủ động tạo được nguồn giống nhân tạo đủ về số lượng và chất lượng để phục vụ cho phong trào nuôi của người dân còn đang gặp rất nhiều khó khăn.
Nghệ An là tỉnh có tiềm năng về nuôi trồng thủy sản với diện tích nuôi mặn lợ khoảng 2.700 ha, trong những năm qua một số hộ dân khu vực ven sông, lạch đã bắt đầu nuôi Hàu thương phẩm và đạt được một số kết quả đáng kể. Tuy nhiên, một trong những khó khăn lớn của nghề nuôi Hàu hiện nay tại Nghệ An là chưa có quy trình kỹ thuật nuôi hoàn chỉnh, con giống từ sinh sản nhận tạo chưa chủ động, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn cung cấp con giống từ các vùng lân cận nên gặp rất nhiều khó khăn. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế trên nhằm đáp ứng cũng như chủ động tạo ra được nguồn giống chất lượng cao phục vụ phong trào nuôi. Trung tâm giống thủy sản Nghệ An đã triển khai thực hiện chuyên đề: “Ứng dụng tiến bộ KHCN hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống Hàu Thái Bình Dương (Crasostrea gigas ) tại Nghệ An”. Thành công của chuyên đề sẽ hoàn thiện được quy trình sản xuất giống đồng thời ứng dụng vào sản xuất thực tế nhằm tạo ra con giống có chất lượng phục vụ nhu cầu nuôi thương phẩm của người dân, ngoài ra việc ứng dụng quy trình công nghệ để sản xuất thành công đối tượng giống Hàu Thái Bình Dương không những góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi theo chủ trương định hướng chung của ngành mà còn góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, ổn định hệ sinh thái, giúp cho nghề nuôi trồng thủy sản phát triển theo hướng bền vững, góp phần chuyển đổi đối tượng sản xuất tại các khu vực nuôi tôm khó khăn, tạo việc làm và tăng thu nhập cho bà con nuôi thủy sản ven biển tại Nghệ An.
II. Kết quả thực hiện.
1. Gây nuôi tảo làm thức ăn tươi sống:
Trong sản xuất giống Hàu Thái Bình Dương thức ăn chính chủ yếu là các loại vi tảo như Nanochloropsis oculata, Isochrysis galbana, Chaetoceros calcitrans.... Vì vậy, nhằm đảm bảo nguồn thức ăn chủ động cho Hàu giống trong quá trình ương nuôi Trại đã nhập tảo giống từ Phân viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ là cơ sở phân lập, lưu giữ, cung cấp Tảo giống có uy tín, đảm bảo độ thuần và chất lượng về để nhân giống làm thức ăn cho Hàu giống.
Đầu tiên tảo giống được nhập về Trại từ phòng thí nghiệm sau đó đưa vào nuôi trong các túi nilong và bình nhựa có dung tích 10 lít (đã được vệ sinh sạch sẽ để tránh lây nhiễm), tùy vào mật độ cũng như lượng tảo giống nhiều hay ít mà cấp nước cho phù hợp, nếu mật độ tảo thấp mà cấp nước nhiều sẽ làm tảo phát triển chậm hoặc chết đi.
Trong quá trình cho tảo giống vào túi nilong bình nhựa việc cấp nước chủ yếu là phương pháp so màu bằng mắt thường để cấp nước, thông thường một túi nilong và bình nhựa có dung tích 10 lít thì cho vào 3 lít tảo giống sau đó cấp nước đầy túi và bình, việc nuôi tảo giống ban đầu với mật độ cao sẽ giúp tảo phát triển nhanh và thuần.
Sau 2 - 3  ngày nuôi, khi quan sát qua màu tảo ở túi và bình thấy mật độ tảo đạt cao thì tiến hành nhân ra các túi nilong và bình nhựa khác để nuôi tiếp. Việc nhân tảo nhằm đáp ứng được nhu cầu về lượng thức ăn để cung cấp cho Hàu giống trong quá trình ương nuôi.
c1
Hình 1: Nhân tảo làm thức ăn cho ấu trùng Hàu Thái Bình Dương.
- Quá trình nhân tảo cần đảm bảo khí ở trong túi nilong và bình nhựa được sục liên tục 24/24.
- Nguồn nước: Nguồn nước đưa vào nuôi cấy tảo  được xử lý Chlorine 10 - 20 ppm sau đó được lọc sạch qua hệ thống lọc cát mịn và túi lọc tinh 1 - 5mm.
- Ánh sáng: Quá trình nhân tảo thường sử dụng ánh sáng mặt trời, với điều kiện thích hợp như nhiệt độ từ 22 - 250C, cường độ chiếu sáng từ 4.000 - 8.000 lux thì thời gian tăng trưởng của tảo có thể kéo dài 5 - 6 ngày. Tuy nhiên vào mùa hè với nhiệt độ cao từ 30 - 350C thì tảo sẽ phát triển nhanh và rất chóng tàn nên ở thời điểm này cần bổ sung thêm mái che để giảm nhiệt độ cũng như tránh những lúc trời mưa gió.
2. Tuyển chọn Hàu bố mẹ:
Hàu bố mẹ được Trại tuyển chọn, nhập từ vùng nuôi thương phẩm tập trung tại Thanh Hóa về để phục vụ nghiên cứu, sản xuất. Qua kiểm tra, tuyển chọn cho thấy Hàu bố mẹ đạt các tiêu chí sau:
- Hàu bố mẹ có kích thước lớn, chiều cao vỏ >7cm, vỏ sáng bóng, không bị dị hình dị dạng.
- Tuổi Hàu từ 1- 2 tuổi, tuyến sinh dục chủ yếu ở giai đoạn III, kiểm tra tuyến sinh dục thấy phát triển căng đều, ấn nhẹ thấy sản phẩm sinh dục trào ra cho thấy Hàu bố mẹ đã sẵn sàng sinh sản nên Trại đã nhập về để cho sinh sản.
c2 

Hình 2: Tuyển chọn Hàu bố mẹ cho sinh sản.
3. Kích thích Hàu sinh sản:
Hàu bố mẹ sau khi được tuyển chọn và nhập về Trại thì tiến hành vệ sinh sạch sẽ những vật bám, rong rêu ở phía ngoài vỏ Hàu. Sau đó dùng dụng cụ mổ Hàu bố mẹ ra để kiểm tra chất lượng tinh của Hàu đực và trứng của Hàu cái sau đó phân loại theo tỉ lệ đực cái 3:10.
Hàu đực và Hàu cái được chọn ra ta dung tay vuốt nhẹ sản phẩm sinh dục cho vào xô nước biển sạch (xô loại 20 lít) có sục khí nhẹ, khi vuốt nên để tất cả cơ quan con Hàu chìm trong nước, vuốt nhẹ nhàng tránh làm cho phần nội tạng và sản phẩm tiêu hóa của Hàu vỡ ra sau đó chuyển vào xô có kích thước lớn hơn khoảng 100 - 150 lít nước sục khí trong 30 phút. Sau khi trứng thụ tinh thì tiến hành lọc sạch qua vợt chuyên dụng và chuyển vào các bể ương nuôi, mật độ bể ương nuôi để cho sinh sản là khoảng 25 - 30 con Hàu cái/bể 5 - 6 m3.
c3
Hình 3: Kiểm tra Hàu bố mẹ và kích thích cho sinh sản.
4. Ương nuôi ấu trùng:
4.1. Quản lý chăm sóc bể ương nuôi ấu trùng:
- Nước cung cấp cho quá trình ương nuôi ấu trùng được bơm trực tiếp từ biển vào và để lắng ở bể chứa qua 2 - 3 ngày sau đó được cấp vào bể ương qua hệ thống lọc thô bằng cát và lọc tinh bằng ống lọc 5 µm. Độ mặn luôn được điều chỉnh phù hợp theo từng giai đoạn ương dao động từ 20 - 25 ‰, pH: 7,5 - 8,0, oxy hòa tan luôn đảm bảo ở mức >5 mg/l.
c4
Hình 4: Theo dõi chắm sóc ấu trùng Hàu trong quá trình ương nuôi.
- Ấu trùng được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 8h sáng và 16h chiều, thức ăn là các loại tảo như Nanochloropsis oculata, Isochrysis galbana, Chaetoceros calcitrans. Mật độ tảo cho ăn khoảng 30.000 - 160.000 tế bào/ml tùy theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng.
- Định kỳ khoảng 3 - 5 ngày thay 100 % thể tích nước bể ương bằng cách rút cạn nước trong bể thu ấu trùng bằng vợt chuyên dùng có kích cỡ mắt lưới phù hợp với từng giai đoạn của ấu trùng sau đó chuyển sang bể mới. Các vật dụng chuyên dùng và bể ương đều được ngâm và tẩy rửa bằng hóa chất Iotdin.
- Kiểm tra ấu trùng hàng ngày bằng kính hiển vi để xem khả năng lọc thức ăn, sự phát triển và chuyển giai đoạn của ấu trùng. Ngoài ra, việc kiểm tra còn biết được kích thước của ấu trùng để lựa chọn lưới lọc có mắt lưới phù hợp để lọc ấu trùng khi chuyển bể, san thưa.
c5
Hình 5: Kiểm tra Ấu trùng Hàu Thái Bình Dương qua kính hiển vi
3.5.2. Kết quả sản xuất:
3.5.2.1. Kết quả cho đẻ đợt 1:
Ngày 24/5/2019 đưa vào sinh sản với lượng 50 kg Hàu bố mẹ:
- Sau khi vệ sinh sạch sẽ kiểm tra chất lượng trứng và tinh của Hàu bố mẹ tuyển chọn được 120 con cái và 40 con đực cho tham gia sinh sản. Hàu bố mẹ sau khi được tuyển chọn và cho kích thích sinh sản thì được chuyển vào 4 bể đẻ, mỗi bể 6m3.
- Sau khi chuyển vào bể đẻ 24 giờ sau ấu trùng Hàu chuyển sang ấu trùng chữ D, tỷ lệ nở khoảng 80%. Qua theo dõi và chăm sóc thấy ấu trung Hàu phát triển tương đối tốt nên tiến hành san thưa ra 12 bể để ương nuôi.
- Thức ăn ở giai đoạn này là tảo Nanochloropsis occullata, lượng cho ăn khoảng 30.000 - 40.000 tế bào/ml.
- Sau 7 ngày chăm sóc ấu trùng Hàu đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn đỉnh vỏ (Umbo trung kỳ). Thức ăn cho giai đoạn này là hỗn hợp 3 loài tảo 1/3 Nanochloropsis oculata, 1/3 Isochrysis galbana, 1/3 Chaetoceros calcitrans; lượng cho ăn khoảng 60.000 - 80.000 tế bào/ml.
- Sau 15 ngày ấu trùng chuyển sang giai đoạn hậu kỳ đỉnh vỏ, lúc này ấu trùng đã xuất hiện điểm mắt, qua theo dõi thấy kích thước ấu trùng tăng nhanh nên bổ sung lượng thức ăn nhiều hơn. Thức ăn vẫn là hỗn hợp 3 loại tảo trên nhưng với lượng tăng lên khoảng 10.000 - 140.000 tế bào/ml.
- Số lần cho ăn: 2 lần/ngày vào lúc 8h sáng và 16h chiều.
- Kết quả: sản xuất được 40 vạn con Hàu giống cỡ 3 - 5 mm.
Bảng 1: Loại thức ăn và lượng cho ăn theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng
Hàu TBD ở kết quả cho đẻ đợt 1.
Giai đoạn Ngày tuổi  Mật đương (ấu trùng/ml) Thức ăn
(Tế bào/ml)
Loại và lượng thức ăn
u trùng chữ D 24 giờ 10 30000 100% (Na) 2 lần/ngày
Umbo trung kỳ 7 ngày 5 – 10 60000 1/3Na+1/3 Iso+1/3Cha 2 lần/ngày
Umbo hậu kỳ 15 ngày 5 – 10 80000 1/3Na+1/3 Iso+1/3Cha 2 lần/ngày
Ấu trùng điểm mắt 18 ngày 5 140000 1/3Na+1/3 Iso+1/3Cha 2 lần/ngày
Spat sớm 23 ngày 5 160000 1/3Iso+2/3Cha 2 lần/ngày
(Ghi chú: Na: Nanochloropsis occullata; Iso: Isochrysis galbana; Cha: Chaetoceros calcitrans)
3.5.2.2. Kết quả cho đẻ đợt 2:
Ngày 16/7/2019 đưa vào sinh sản với lượng 50 kg Hàu bố mẹ:
- Sau khi kiểm tra chất lượng trứng và tinh của Hàu bố mẹ tuyển chọn được 100 con cái và 30 con đực cho tham gia sinh sản. Hàu bố mẹ sau khi được tuyển chọn và cho kích thích sinh sản thì được chuyển vào 3 bể đẻ, mỗi bể 6 m3.
- Sau 23 giờ ấu trùng Hàu chuyển sang ấu trùng chữ D, tỷ lệ nở khoảng 70 %. Qua theo dõi và chăm sóc thấy ấu trung Hàu phát triển tương đối tốt nên tiến hành san thưa ra 9 bể để ương nuôi. Thức ăn ở giai đoạn này là tảo Nanochloropsis occullata, lượng cho ăn khoảng 30.000 - 40.000 tế bào/ml.
- Sau 6 ngày chăm sóc ấu trùng Hàu đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn đỉnh vỏ (Umbo trung kỳ). Thức ăn là hỗn hợp 3 loài tảo 1/3 Nanochloropsis oculata, 1/3 Isochrysis galbana, 1/3 Chaetoceros calcitrans; lượng cho ăn khoảng 60.000 - 80.000 tế bào/ml.
- Sau 14 ngày ấu trùng chuyển sang giai đoạn hậu kỳ đỉnh vỏ, lúc này ấu trùng đã xuất hiện điểm mắt, qua theo dõi thấy kích thước ấu trùng tăng nhanh nên bổ sung lượng thức ăn nhiều hơn. Thức ăn vẫn là hỗn hợp 3 loại tảo trên nhưng với lượng tăng lên khoảng 10.000 - 140.000 tế bào/ml.
- Số lần cho ăn: 2 lần/ngày vào lúc 8h sáng và 16h chiều.
- Kết quả: sản xuất được 30 vạn con Hàu giống cỡ 3 - 5 mm.


Bảng 2: Loại thức ăn và lượng cho ăn theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng
Hàu TBD ở kết quả cho đẻ đợt 2.
Giai đoạn Ngày tuổi  Mật đương (ấu trùng/ml) Thức ăn
(Tế bào/ml)
Loại và lượng thức ăn
u trùng chữ D 24 giờ 10 30000 100% (Na) 2 lần/ngày
Umbo trung kỳ 6 ngày 5 - 10 60000 1/3Na+1/3 Iso+1/3Cha 2 lần/ngày
Umbo hậu kỳ 14 ngày 5 - 10 80000 1/3Na+1/3 Iso+1/3Cha 2 lần/ngày
Ấu trùng điểm mắt 17 ngày 5 140000 1/3Na+1/3 Iso+1/3Cha 2 lần/ngày
Spat sớm 22 ngày 5 160000 1/3Iso+2/3Cha 2 lần/ngày
3.5.2.3. Kết quả cho đẻ đợt 3:
Ngày 18/10/2019 đưa vào sinh sản với lượng 50 kg Hàu bố mẹ:
- Sau khi kiểm tra chất lượng trứng và tinh của Hàu bố mẹ tuyển chọn được 80 con cái và 25 con đực cho tham gia sinh sản. Hàu bố mẹ sau khi được tuyển chọn và cho kích thích sinh sản thì được chuyển vào 3 bể đẻ.
- Sau 26 giờ ấu trùng Hàu chuyển sang ấu trùng chữ D, tỷ lệ nở khoảng 60 %. Qua theo dõi và chăm sóc thấy ấu trung Hàu phát triển tương đối tốt nên tiến hành san thưa ra 6 bể để ương nuôi. Thức ăn là tảo Nanochloropsis occullata, lượng cho ăn khoảng 30.000 – 40.000 tế bào/ml.
- Sau 8 ngày chăm sóc ấu trùng Hàu đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn đỉnh vỏ (Umbo trung kỳ). Thức ăn là hỗn hợp 2 loài tảo 2/3 Nanochloropsis oculata, 1/3 Chaetoceros calcitrans; lượng cho ăn khoảng 60.000 - 80.000 tế bào/ml.
- Sau 18 ngày ấu trùng chuyển sang giai đoạn hậu kỳ đỉnh vỏ, lúc này ấu trùng đã xuất hiện điểm mắt, qua theo dõi thấy kích thước ấu trùng tăng nhanh nên bổ sung lượng thức ăn nhiều hơn. Thức ăn là hỗn hợp 2 loại tảo trên nhưng với lượng tăng lên khoảng 10.000 - 140.000 tế bào/ml.
- Số lần cho ăn: 2 lần/ngày vào lúc 8h sáng và 16h chiều.
- Kết quả: sản xuất được 20 vạn con Hàu giống cỡ 3 - 5 mm.
Bảng 3: Loại thức ăn và lượng cho ăn theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng
Hàu TBD ở kết quả cho đẻ đợt 3.
Giai đoạn Ngày tuổi  Mật đương (ấu trùng/ml) Thức ăn
(Tế bào/ml)
Loại và lượng thức ăn
u trùng chữ D 24 giờ 10 30.000 100% (Na) 2 lần/ngày
Umbo trung kỳ 8 ngày 5 - 10 60.000 2/3Na+1/3Cha 2 lần/ngày
Umbo hậu kỳ 18 ngày 5 - 10 80.000 1/3Na+2/3Cha 2 lần/ngày
Ấu trùng điểm mắt 21 ngày 5 140.000 1/3Na+2/3Cha 2 lần/ngày
Spat sớm 25 ngày 5 160.000 1/3Na+2/3Cha 2 lần/ngày

3.5.2.4. Kết quả cho đẻ đợt 4:
Ngày 28/8/2019 đưa vào sinh sản với lượng 50 kg:
- Sau khi kiểm tra chất lượng trứng và tinh của Hàu bố mẹ tuyển chọn được 50 con cái và 20 con đực cho tham gia sinh sản. Hàu bố mẹ sau khi được tuyển chọn và cho kích thích sinh sản thì được chuyển vào 2 bể đẻ.
- Sau 28 giờ ấu trùng Hàu chuyển sang ấu trùng chữ D, tỷ lệ nở khoảng 60 % được tiến hành san thưa ra 6 bể để ương nuôi. Thức ăn là tảo Nanochloropsis occullata, lượng cho ăn khoảng 30.000 - 40.000 tế bào/ml.
- Sau 9 ngày chăm sóc ấu trùng Hàu đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn đỉnh vỏ (Umbo trung kỳ). Thức ăn là hỗn hợp 2 loài tảo 2/3 Nanochloropsis oculata, 1/3 Chaetoceros calcitrans; lượng cho ăn khoảng 60.000 - 80.000 tế bào/ml.
- Sau 20 ngày ấu trùng chuyển sang giai đoạn hậu kỳ đỉnh vỏ, lúc này ấu trùng đã xuất hiện điểm mắt. Thức ăn là tảo Chaetoceros calcitrans với lượng cho ăn khoảng 10.000 140.000 tế bào/ml.
- Số lần cho ăn: 2 lần/ngày vào lúc 8h sáng và 16h chiều.
- Kết quả: sản xuất được 10 vạn con Hàu giống cỡ 3 - 5 mm.
Bảng 4: Loại thức ăn và lượng cho ăn theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng
Hàu TBD ở kết quả cho đẻ đợt 4.
Giai đoạn Ngày tuổi  Mật đương (ấu trùng/ml) Thức ăn
(Tế bào/ml)
Loại và lượng thức ăn
u trùng chữ D 28 giờ 10 30000 100% (Na) 2 lần/ngày
Umbo trung kỳ 9 ngày 5 – 10 60000 2/3Na+1/3Cha 2 lần/ngày
Umbo hậu kỳ 20 ngày 5 – 10 80000 100 % Cha 2 lần/ngày
Ấu trùng điểm mắt 25 ngày 5 140000 100 % Cha 2 lần/ngày
Spat sớm 28 ngày 5 160000 100 % Cha 2 lần/ngày
3.6. Thu con giống:
- Khi ấu trùng chuyển đến giai đoạn có chân (metamorphosis) và sẵn sàng chuyển sang giai đoạn con giống nhỏ đây là dấu hiệu kết thúc giai đoạn sống trôi nổi chuyển sang giai đoạn sống bám, nên trong quá trình chăm sóc quản lý đã theo dõi thường xuyên để lọc phân cỡ sau đó thả vật bám vào bể để thu con giống Hàu bám.
- Vật bám được sử dụng là vỏ lồi của hầu thương phẩm, vỏ được vệ sinh sạch sẽ, xâu lại thành chuỗi với số lượng từ 70 vỏ/dây và 280 vỏ/chùm.
c6
Hình 6: Vệ sinh vật bám (vỏ hàu) trước khi đưa vào bể cho ấu trùng Hàu bám.
- Thông thường mỗi bể 5 m3 được thả 25 chùm vào cho bám, các chùm được treo sát thành bể với khoảng cách nhất định. Sau khi thả vật bám vào bể thường xuyên kiểm tra khi thấy mật độ ấu trùng bám vào vật bám khoảng 20 - 30 ấu trùng/vật bám thì tiến hành chuyển các chùm đã có ấu trùng bám đưa ra bể ương có diện tích lớn hơn khoảng 200 m3 để ương nuôi lên cỡ 3 - 5 mm.
c7
Hình 7: Thả vật bám (vỏ hàu) vào bể ương nuôi để thu con giống Hàu bám.
- Do ấu trùng không đồng đều về kích thước nên mỗi đợt cho bám chỉ cho bám được 1 – 2 đợt bám. Số ấu trùng còn lại chưa bám thường có chất lượng thấp hoặc đã đạt về kích thước nhưng chưa biến thái đầy đủ để chuyển giai đoạn thì được đưa lại bể ương và theo dõi tiếp.
3.7. Ương nuôi Hàu giống lên cỡ 3 - 5 mm:
- Sau khi đã kiểm tra đủ số lượng con giống bám trên vật bám thì tiến hành chuyển giống ra ngoài bể ương có kích thước lớn hơn để ương nuôi lên cõ 3 - 5 mm.
- Bể dùng để ương nuôi con giống lên cỡ 3 - 5 mm có kích thước 200 m3, thức ăn chủ yếu là các loại tảo và thực vật phù du được bơm từ bể nuôi tôm sang. Vì con giống lúc này còn quá nhỏ, không đảm bảo chất lượng để đưa ra nuôi thương phẩm, do đó việc ương con giống lên cỡ 3 - 5mm sẽ đảm bảo tỉ lệ sống cho con giống khi đem ra nuôi thương phẩm.
c8 

Hình 8: Ương nuôi ấu trùng Hàu lên cỡ 3 - 5 mm.
Thương xuyên kiểm tra ấu trùng cũng như mật độ thức ăn trong bể để bổ sung kịp thời, thức ăn chủ yếu là các loài tảo và thực vật phù du có sẵn trong bể nuôi tôm đã chuẩn bị trước đó để cấp sang bể ương ấu trùng Hàu. Sau 7 - 10 ngày ương khi kích cỡ con giống đạt 3 - 5mm thì tiến hành thu hoạch và đưa ra để nuôi thương phẩm.
3.8. Vận chuyển con giống:
Do việc vận chuyển con giống bám khá cồng kềnh nên khi vận chuyển thường dùng phương tiên là xe máy hoặc là ô tô, quá trình vận chuyển phải có bạt che để chống nóng. Thường xuyên tưới nước giữ ẩm cho Hàu giống, thời gian vận chuyển tùy thuộc vào quãng đường xa hay gần tuy nhiên không quá 24 giờ.
c9
Hình 9: Thu hoạch và vận chuyển Hàu giống.
III. Kết luận.
- Chuyên đề đã được Trại sản xuất giống thủy sản Quỳnh Liên phối hợp với phòng Kế hoạch - Kỹ thuật triển khai thực hiện nghiêm túc đúng mục tiêu, nội dungtiến độ chuyên đề đặt ra. Qua 4 đợt nghiên cứu sản xuất thử nghiệm đã sản xuất được trên 1 triệu con Hàu giống, kích cỡ 3 - 5 mm, đảm bảo chất lượng thả nuôi thương phẩm cung cấp cho người nuôi.
- Trong quá trình nghiên cứu thực hiện chuyên đề cũng cho thấy một số khó khăn trong quá trình sản xuất giống Hàu Thái Bình Dương tại Nghệ An đặc biệt là do ảnh hưởng của thời tiết, nhiệt độ không ổn định làm cho ấu trùng bị hao hụt. Ngoài ra những tháng cuối năm trời chuyển lạnh, nhiệt độ xuống thấp làm cho quá trình chuyển giai đoạn của ấu bị kéo dài gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất.
- Từ những kết quả đạt được qua các đợt nghiên cứu sản xuất cho thấy đối tượng Hàu Thái Bình Dương hoàn toàn phù hợp với điều kiện khí hậu tại Nghệ An, việc đưa vào sản xuất sẽ đem lại hiệu quả cao cũng như đa dạng hóa được đối tượng sản xuất. Tuy nhiên để đạt được năng suất và hiệu quả cao nhất cần có sự điều chỉnh, lựa chọn mùa vụ thích hợp để không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất./.

TRUNG TÂM GIỐNG THỦY SẢN NGHỆ AN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thăm dò ý kiến

Bạn muốn biết thông tin về sản phẩm tôm giống của trung tâm?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập21
  • Hôm nay20,442
  • Tháng hiện tại480,197
  • Tổng lượt truy cập7,328,007
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây