Thiếu bền vững
Vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có diện tích khoảng 21.600 ha, dài 68 km. Vùng đầm phá được thiên nhiên ban tặng nhiều loại đặc sản không nơi nào có được, như cá kình, cá nâu, cá dìa, cua,… Các loại thủy sản đầm phá ở Thừa Thiên – Huế có nét đặc trưng, chất lượng hơn hẳn so với những vùng miền khác.
Tuy nhiên, theo đánh giá của ngành chức năng, phần lớn người tham gia khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản trên đầm phá Tam Giang – Cầu Hai đều có quy mô nhỏ lẻ. Phương thức nuôi chưa đúng quy trình kỹ thuật, thu hoạch sản phẩm chủ yếu bán cho các thương lái, giá không ổn định,…
Mô hình nuôi cá nâu mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: NP
Đặc biệt, khó khăn lớn nhất là việc không chủ động nguồn giống, nguồn giống bản địa, tại chỗ đang dần ít đi và chưa thương mại hóa được nghề sản xuất giống với những con giống bản địa nên việc nuôi trồng gặp không ít rào cản. Các cơ sở nuôi trồng chủ yếu nhập giống từ các tỉnh, thành khác. Đây là những yếu tố làm nghề nuôi thủy, hải sản ở vùng đầm phá còn thiếu bền vững.
Ứng dụng khoa học công nghệ
Để khắc phục những hạn chế và phát huy tiềm năng, lợi thế vùng đất ngập nước rộng lớn được thiên nhiên ban tặng, những năm qua, ngành nông nghiệp, khoa học công nghệ cùng chính quyền địa phương đã tập trung nhiều giải pháp để khai thác hiệu quả vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai.
Trong đó, riêng về lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, thời gian gần đây, các địa phương đã ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ trong việc nhân giống nhân tạo một số loài cá đặc sản, có giá trị kinh tế cao như: nâu, đối, vẩu, hồng, mú, dìa,… Nhiều mô hình nuôi cá vẩu, cá nâu, nuôi xen ghép tôm – cá – cua,… cho thu nhập từ 200 – 250 triệu đồng/năm, có hộ thu nhập lên đến 400 triệu đồng/năm từ nuôi cá lồng,…
Cá nâu, với chất lượng thịt thơm ngon, được biết đến là một trong số các loài đặc sản của vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, được nhiều người ưa chuộng. Thời gian qua, nhóm nghiên cứu Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế đã nghiên cứu thành công quy trình công nghệ sản xuất giống cá nâu phục vụ nhu cầu nuôi thương phẩm cho người dân, doanh nghiệp. Sau hơn 5 năm nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm, quy trình công nghệ sản xuất giống nhân tạo cá nâu đã ổn định.
Kết quả nghiệm thu cho thấy, quy trình công nghệ sản xuất giống cá nâu ổn định và đạt tỷ lệ sống của cá bố mẹ là 80%; tỷ lệ thành thục > 80%; tỷ lệ sinh sản của cá bố mẹ > 75%; tỷ lệ thụ tinh > 85%; tỷ lệ nở > 80%; tỷ lệ sống từ giai đoạn cá bột đến cá giống ≥ 5%.
Quy trình công nghệ sản xuất cá nâu mang lại những ưu điểm nổi bật. Trong đó, việc quản lý đàn cá bố mẹ nuôi vỗ có thể được thực hiện trong lồng bè hoặc ao và cung cấp các thông số kỹ thuật nhân giống; khắc phục được những tác động tiêu cực do biến đổi môi trường, dịch bệnh trên cá, thiên tai, lũ lụt,… Quy trình kỹ thuật ấp trứng và ương ấu trùng có thể thực hiện trong bể hoặc ao. Trong đó, kỹ thuật ấp trứng và ương ấu trùng trong ao được coi là giải pháp kỹ thuật đơn giản và có thể áp dụng rộng rãi, linh hoạt hơn. Điều này mở ra cơ hội sản xuất ở quy mô thương mại do giảm chi phí nhân công so với sản xuất trong bể nhựa/composite hoặc bể xi măng.
PGS.TS Nguyễn Văn Huy, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cho biết: “Thời gian qua, sản phẩm nguồn cá giống chất lượng cao đã được cung ứng cho một số doanh nghiệp và các hộ nuôi nhỏ lẻ nuôi thương phẩm ở các vùng nuôi như xã Điền Hương (nay là xã Phong Thạnh, thị xã Phong Điền) và rải rác trên các vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Ngoài ra, đã có hơn 30 vạn con giống cá nâu được thả tái tạo nguồn lợi thủy sản ở các khu bảo tồn dọc hệ đầm phá, đem lại nguồn lợi đặc sản phong phú, hiệu quả kinh tế cho cư dân khai thác, nuôi trồng ở địa phương”.
Qua quá trình sản xuất thử nghiệm, tính toán hiệu quả kinh tế trên 10 vạn giống cá nâu xuất ra thị trường, với tổng số cá bố mẹ cần 50 cặp, tổng chi phí dự kiến khoảng 105 triệu đồng, tổng doanh thu 150 triệu đồng và lợi nhuận thu được khoảng 45 triệu và tỷ suất lợi nhuận đạt 30%.
Thanh Hiếu
Nguồn tin: thuysanvietnam.com.vn
Ý kiến bạn đọc