Báo cáo kết quả thực hiện mô hình “Ứng dụng tiến bộ KHCN thử nghiệm nuôi thương phẩm Tôm càng xanh siêu đực (Macrobrachium rosenbergii), trong ao đất quy mô công nghiệp tại Nghệ An”

Thứ sáu - 27/05/2022 05:31 824 0
I. Đặt vấn đề.
Tôm càng xanh có tên khoa học là Macrobrachium rosenbergii, sống nước ngọt, có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Tôm càng xanh có vỏ mỏng và béo, thịt tươi và mềm, hương vị thơm ngon và giá trị dinh dưỡng rất cao, trong 100 gram thịt tôm chứa 20,6 gram protein và 0,7 gram chất béo, chứa nhiều loại vitamin và các nguyên tố vi lượng thiết yếu cho cơ thể con người. Tôm Càng Xanh dễ chế biến thành những món ăn ngon như hấp, chiên, nướng, rang muối,…. Ngoài ra, tôm càng xanh không chỉ là thực phẩm mà còn là vị thuốc quý trong Đông y, với tên thuốc là hà ngư hay hà mễ, vị ngọt, tính ấm, không độc, có tác dụng bổ dương khí, lợi sữa, giải độc, chống nôn. Tôm Càng Xanh có thể dùng tươi, phơi khô hoặc tán bột làm thuốc kích thích các tế bào biểu mô làm cho vết thương mau lành và còn có tác dụng tạo nên tác động kích thích miễn dịch và chống khối u, cải thiện tiến trình thay đổi tế bào và gia tăng các tế bào của vỏ xương ở người.
Chính vì vậy, nên hiện nay nhu cầu Tôm càng xanh thương phẩm cho người tiêu dùng đang rất lớn, trong khí đó nguồn cung từ việc nuôi thương phẩm chưa thể đáp ứng được cho nhu cầu thị trường, với giá bán 250.000 - 300.000 đ/kg tuỳ theo kích cỡ thương phẩm. Đây được xem là đối tượng nuôi tiềm năng, có giá trị kinh tế cao trong nuôi thuỷ sản nước ngọt nhằm khai thác tiềm năng diện tích nước ngọt, đa dang hóa đối tương nuôi, tăng hiệu quả trên đơn vị diện tích và tái cơ cấu ngành thủy sản Nghệ An góp phần phát triển kinh tế nông hộ, giải quyết công ăn việc làm tại các địa phương có điều kiện tự nhiên về ao hồ, ruộng lúa chiêm trũng.
Hiện nay, nhiều tỉnh thành trên cả nước như Tây Ninh, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Hải Phòng, Nam Định…đang phát triển mạnh phong trào nuôi thương phẩm Tôm càng xanh siêu đực với nhiều hình thức nuôi như nuôi thâm canh trong ao, nuôi trong ruộng lúa cho hiệu quả kinh tế cao. So với tôm càng xanh truyền thống (50% đực và 50% cái), tôm càng xanh siêu đực có nhiều ưu điểm vượt trội hơn như tăng trưởng nhanh gấp đôi so với cùng thời gian nuôi, hạn chế được phân đàn giúp thu hoạch đồng loạt và đặc biệt so với tôm sú, tôm thẻ chân trắng tôm càng xanh siêu đực dễ nuôi, lớn nhanh, ít bị dịch bệnh, thích nghi tốt với môi trường, nguồn nước và có thể nuôi được trong nước lợ 4 - 5‰, nuôi nước ngọt trong ao hồ, ruộng lúa nên rất thích hợp với điều kiện Nghệ An.
Nghệ An có tiếm năng lớn về diện tích nuôi thuỷ sản nước ngọt, nuôi cá lúa rất phù hợp với việc nuôi thương phẩm tôm càng xanh siêu đực theo quy mô công nghiệp hoặc bán thâm canh, có thể nuôi đơn hoặc nuôi ghép với cá. Nhận thấy, Tôm càng xanh siêu đực là một đối tượng nuôi có nhiều triển vọng, có giá trị kinh tế cao, góp phấn đa dạng hóa đối tượng nuôi nước ngọt trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Trung tâm giống thủy sản Nghệ An đã triển khai thực hiện mô hình: “Ứng dụng tiến bộ KHCN thử nghiệm nuôi thương phẩm Tôm càng xanh siêu đực (Macrobrachium rosenbergii), trong ao đất quy mô công nghiệp tại Nghệ An”.
II. Tổng quan về đối tượng thực hiện.
1. Hệ thống phân loại.
Ngành: Arthropoda
      Lớp: Malacostraca
          Bộ: Decapoda
     Họ: Palaemonidae
         Giống: Macrobrachium
   Loài:  Macrobrachium rosenbergiiDe Man, 1879


Hình 1: Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii)

2. Đặc điểm hình thái

Hình thái của tôm càng xanh được nhiều tác giả mô tả như Holthius; Đức và ctv. (1988 và 1989); Forster và Wickins 1972. Tuy nhiên, ở nước ta trong ao nuôi hay trong khai thác tự nhiên thì xuất hiện 2 dạng tôm càng mà được gọi là tôm càng xanh và tôm càng lửa.
Vòng đời của tôm càng xanh có có 4 giai đoạn rõ ràng là trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành. Tôm trưởng thành sống ở vùng nước ngọt, thành thục và giao vi trong nước ngọt, nhưng sau đó chúng di cư ra vùng nước lợ (có độ mặn 6-18%o) và ấu trùng nở ra, sống phù du trong nưóc lợ. Khi hoàn thành 11 lần lột xác để thành tôm con thì tôm di chuyển dần vào trong vùng nước ngọt.
Trong tự nhiên, tôm thành thục và giao vĩ xảy ra hầu như quanh năm. Tùy từng nơi mà chỉ tập trung vào những mùa chính, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, có hai mùa tôm sinh sản chính là khoảng tháng 4 - 6 và tháng 8 - 10. Tôm cái thành thục lần đầu ở khoảng 3 - 3.5 tháng kể từ hậu ấu trùng 10 - 15 ngày tuổi (PL10-15). Kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt thành thục được ghi nhận là khoảng 10 - 13cm và 7.5g.  Tuy nhiên, tuổi thành thục và kích cỡ thành thục của tôm còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như môi trường và thức ăn.
Giống như các loài giáp xác khác, sinh trưởng của tôm càng xanh không liên tục, có sự gia tăng kích thước nhanh sau mỗi lần lột xác. Tốc độ sinh trưởng của tôm đực và cái gần như tương đương nhau cho tới khi chúng đạt kích cỡ 35 -50g, sau đó khác nhau rõ theo giới tính, tôm đực sinh trưởng nhanh hơn tôm cái và đạt trọng lượng có thể gấp đôi tôm cái trong cùng một thời gian nuôi.
Tôm cái khi bắt đầu thành thục (khoảng 40g, hay 140 - 150cm chiều dài) thì sinh trưỏng giảm vì nguồn dinh dưỡng chủ yếu tập trung cho sự phát triển của buồng trứng. Một hiện tượng thường thấy trong nuôi tôm càng xanh là sự phân đàn khá rõ kể cả trong cùng một nhóm giới tính. Kích thưóc của tôm có thể đạt 40 - 50 g trong thời gian 4 - 5 tháng nuôi. Kích cở tôm lớn nhất tìm thấy ở Ấn độ là 470 g, Thái lan 470 g và Việt nam 434 g.
Chu kỳ lột xác của tôm tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng, tình trạng sinh lý, điều kiện dinh dưỡng, điều kiện môi trường,…. Tôm càng xanh tuân theo qui luật chung của tôm là tôm nhỏ chu kỳ lột xác ngắn hơn tôm lớn.
Cơ chế lột xác của tôm càng xanh giống như các loài giáp xác chân đốt khác. Khi tôm tích lũy đầy đủ chất dinh dưỡng, năng lượng và tới chu kỳ lột xác thì lúc đó lớp vỏ mới hình thành dần dưới lớp vỏ cũ, lớp này rất mỏng, mềm và co giãn được. Khi lớp vỏ mới này phát triển đầy đủ thì tôm tìm nơi vắng và giàu oxy để lột vỏ. Khi lớp võ cũ lột đi, vỏ mới còn mềm và co giãn được và dưới áp lực của khối mô cơ lâu ngày bị ép bởi lớp vỏ cũ, cơ thể tôm bấy giờ giãn nở, lớn lên nhiều và khác hẳn với lúc trước lột xác. Lớp vỏ mới cứng dần sau 3 - 6 giờ và tôm sẽ hoạt động lại bình thường sau đó.
Quá trình lột vỏ của tôm thực hiện rất nhanh chỉ trong vòng 3 - 5 phút. Khởi đầu tôm ngưng hết mọi hoạt động bên ngoài, uống cong mình gây nên áp lực ngày càng tăng phá vở lớp màng giữa giáp đầu ngực và vỏ tạo nên một khoảng hở ngang lưng. Tôm lúc này co mình thành hình chữ U, áp lực bên trong cơ thể tăng lên, và dần dần tôm thoát toàn bộ cơ thề qua khoảng hở ở lưng. Sau mỗi lần lột xác, cơ thể tôm tăng lên 9 - 15% trọng lượng thân.

3. Phân bố

Tôm càng xanh phân bố ở tất cả các thủy vực nước ngọt (đầm, ao, sông, rạch, ruộng lúa…) và kể cả ở vùng nưóc lợ cửa sông. Trên thế giới tôm phân bố ở khu hệ Ấn Độ Dương và Tây Nam Thái Bình Dương. Ở Việt nam, tôm càng xanh phân bố chủ yếu các tỉnh Nam bộ đặc biệt là các vùng nước ngọt và vùng cửa sông ven biển ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.

4. Tập tính

Tôm càng xanh trưởng thành là loài ăn tạp và ăn tầng đáy, nó sử dụng nhiều loại động vật khác nhau để làm thức ăn từ nhuyễn thể, giáp xác đến  tảo sợi và kể cả chất thối rữa hữu cơ, và tôm cũng ăn thức ăn viên công nghiệp. Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác, chúng dùng râu quét ngang, dọc phía trước hưóng di chuyển. Khi tìm gặp thức ăn chúng dùng chân ngực thứ nhất kẹp lấy thức ăn, đưa chân hàm và từ từ đưa vào miệng. Tôm có hàm trên và hàm dưới cấu tạo bằng chất kitin nên nghiền được các loại thức ăn cứng như nhuyễn thể…
Trong quá trình tìm thức ăn tôm có tính tranh giành cao, cá thể nhỏ thường tránh xa đàn hay khi tìm được một miếng thức ăn thì di chuyển đi nơi khác, trong khi đó con lớn vẫn chiếm chỗ và đánh đuổi tôm nhỏ. Ngoài ra, tôm còn ăn đồng loại khi chúng yếu (ví dụ như mới lột) hay khi thiếu thức ăn.

5. Môi trường sống

- Nhiệt độ: Tôm càng xanh là loài thích nghi với biên độ nhiêt độ rộng từ 18 - 34oC, nhiệt độ tốt nhất là 26 - 31oC, ngoài phạm vi nhiệt độ nay tôm sẽ sinh trưởng chậm hay khó lột xác.
- pH: pH thích hợp nhất cho tôm càng xanh là 6.5 - 8.5, ngoài khoảng nay tôm có thể sống được nhưng sinh trưởng kém, pH dưới 5 tôm hoạt động yếu và chết sau 6 giờ. Khi gặp môi trường có pH thấp tôm sẽ nổi đầu, dạt vào bờ, mang đổi màu, mang và các phụ bộ bị lở loét, tôm bơi lội chậm chạp và chết sau đó.
- Oxy hòa tan: Môi trường phải có oxy hòa tan > 3 mg/l, dưới mức nầy tôm hoạt động yếu, tập trung ven bờ, nổi đầu và chết sau vài giờ. Nếu hàm lượng oxy vượt quá mức bảo hòa cũng gây tác hại đến tôm nhất là quá trình hô hấp (chứa nhiều khí trong hệ tuần hoàn, cản trở lưu thông máu).
- Ánh sáng: Tôm thích ánh sáng vừa phải, cường độ thích hợp nhất là 400 lux. Ánh sáng cao sẽ ức chế hoạt động của tôm, do vậy ban ngày có ánh sáng cao tôm xuống đáy thủy vực trú ẩn, ban đêm hoạt động tìm mồi tích cực. Tôm không ưa ánh sáng có cường độ cao nhưng lại có tính hướng quang vào ban đêm, khi có luồng sáng thì tôm sẽ tập trung lại, và tôm lớn có tính hướng quang kém hơn tôm nhỏ.
- Nồng độ muối: Tôm thích hợp nồng độ muối từ 0 - 16‰, tôm trưỏng thành sinh trưởng tốt ở vùng cửa sông ven biển.

6. Sinh sản

Có thể phân biệt tôm đực và cái dễ dàng thông qua hình dạng bên ngoài của chúng. Tôm đực có kích cỡ lớn hơn tôm cái, đầu ngực to hơn và khoang bụng hẹp hơn. Đôi càng thứ hai to, dài và thô. Ở con đực còn có nhánh phụ đực mọc kế nhánh trong của chân bụng thứ hai. Nhánh phụ đực bắt đầu xuất hiện ở giai đoạn ấu niên khi tôm đạt kích cỡ 30 mm và hoàn chỉnh khi tôm đạt 70 mm. Ngoài ra, ở giữa mặt bụng của đốt bụng thứ nhất còn có điểm cứng.
Tôm cái thường có kích cỡ nhỏ hơn tôm đực, có phần đầu ngực nhỏ và đôi càng thon. Tôm có 3 tấm bụng đầu tiên rộng và dài tạo thành khoang bụng rộng làm buồng ấp trứng. Cơ quan sinh dục trong của con đực gồm một đôi tinh sào, một đôi ống dẫn tinh và đầu mút. Đôi tinh sào ngoằn ngoèo nằm giữa lưng của giáp đầu ngực được nối với ống dẫn tinh chạy từ trước tim dọc sang hai bên viền sau của giáp đầu ngực và đổ vào đầu mút nằm ở đốt coxa của chân ngực 5.


III. Kết quả thực hiện mô hình.
1. Lựa chọn, chuẩn bị ao nuôi Tôm càng xanh thương phẩm.
a) Lựa chọn ao nuôi:
- Ao nuôi được lựa chọn để thực hiện mô hình có diện tích: 2.000 m2, nền đáy là bùn cát, nền đáy ao nuôi bằng phẳng, nghiêng về phía cống thoát nước, lớp bùn đáy ao nuôi dày 12 - 15 cm.
- Mực nước ao nuôi duy trì: 1,0 - 1,5 m nước.
- Ao nuôi có cống cấp và cống thoát đầy đủ, được bố trí gần sông thuỷ lợi có nguồn nước chủ động, trong sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt, công nghiệp.
- Ao nuôi được sử dụng ao có hệ thống tường xây, gia trát đảm bảo chắc chắn để nuôi, có hệ thống cống cấp, cống thoát đầy đủ, có hệ thống xả tràn thuận tiện cho việc luân chuyển nước trong quá trình nuôi.
- Có điện lưới 3 pha đảm bảo để chạy máy quạt nước cũng như việc bơm ao khi cần thiết.
a a

Hình 1: Ao nuôi Tôm càng xanh siêu đực thương phẩm
b) Chuẩn bị ao nuôi tôm càng xanh thương phẩm.                 
- Ao nuôi trước khi thả giống Tôm càng xanh vào nuôi được cải tạo đúng quy trình kỹ thuật, bón vôi diệt tạp 10 kg/100 m2 ao, bón phân chuồng ủ hoai  20 kg/100 m2 ao, phơi đáy ao 2 - 3 ngày trước khi cấp nước để gây màu nước, tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm.
- Nước cấp vào ao được lấy qua lưới lọc nhằm ngăn chặn cá tạp, địch hại vào ao gây thất thoát thức ăn, ảnh hưởng đến tôm giống. Mực nước cấp vào ao ban đầu dao động 50 - 60 cm nước.
- Ao nuôi nuôi được bố trí 2 sàng kiểm tra thức ăn và 2 giàn quạt nước, mỗi giàn 6 cánh đảm bảo cho việc triển khai nuôi Tôm càng xanh thương phẩm.
2. Chọn giống và thả giống.
Sau khi cấp nước 2 - 3 ngày, nước có màu xanh nhạt tiến hành thả giống vào nuôi. Số liệu thả giống cụ thể như sau:
- Ngày thả giống: 23/7/2021
- Số lượng giống thả nuôi: 30.000 con.
- Kích cỡ giống: 1,5 - 2 cm/con.
- Mật độ thả nuôi: 15 con/m2.
- Chất lượng tôm giống: Tôm khoẻ mạnh, vận động nhanh nhẹn, đồng đều kích cỡ, phụ bộ đầy đủ, màu sắc tươi sáng, không có dấu hiệu về bệnh, là dòng Tôm càng xanh siêu đực, đảm bảo chất lượng thả nuôi thương phẩm.
a a

Hình 2: Thả giống tôm càng xanh siêu đực
- Nguồn tôm giống: Nguồn tôm giống được nhập từ miền Nam.
- Trước khi thả, tôm giống được thuần độ mặn và cân bằng nhiệt độ phù hợp với môi trường nước ao nuôi, kiểm tra các yếu tố môi trường nước trong ao nuôi đảm bảo. Kết quả kiểm tra các yếu tố môi trường nước ao nuôi được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Các yếu tố môi trườngkhi thả giống tôm càng xanh
Nhiệt độ
(0C)
pH Oxy (mg/lít) Độ mặn (‰) CaCO3 (mg/lít) NH3 (mg/lít) Màu nước
30 7,8 5,2 0 115 0 xanh nhạt

Qua kết quả kiểm tra các yếu tố môi trường ao nước nuôi cho thấy, các yếu tố môi trường nước ao nuôi khi thả giống tôm càng xanh đều trong ngưỡng cho phép, thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm.
3. Chăm sóc và quản lý Tôm càng xanh nuôi thương phẩm.
Sau khi thả giống xong, nhóm thực hiện mô hình đã tiến hành xây dựng quy trình nuôi, chế độ chăm sóc, quản lý cụ thể để tiện cho việc chăm sóc, quản lý tôm nuôi thương phẩm trong quá trình thực hiện.
3.1. Chế độ chăm sóc Tôm càng xanh nuôi thương phẩm.
- Thức ăn cho tôm: Sử dụng thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho tôm thẻ có hàm lượng Protein 40% để cho tôm ăn. Tuỳ theo giai đoạn phát triển, kích cỡ tôm để xác định lượng thức ăn, kích cỡ hạt thức ăn cho phù hợp với nhu cầu sử dụng thức ăn của Tôm cụ thể như sau:
+ Giai đoạn từ 1 - 25 ngày nuôi: Cho ăn từ 2 - 3.5 kg/ngày
+ Giai đoạn nuôi sau 25 ngày đến thu hoạch: Cho ăn từ 2 - 6,5% khối lượng tôm trong ao.
- Trước khi cho tôm ăn, thức ăn được phối trộn với Vitami C, khoáng với lượng 5 g/kg thức ăn trộn đều, ủ trong vòng 10 - 15 phút sau đó mới tiến hành cho tôm ăn trong suốt quá trình nuôi.
- Cho Tôm ăn 4 lần/ngày, lần 1 vào 7 giờ 30 phút, lần 2 vào 10 giờ 30 phút , lần 3 vào 14 giờ 30 phút và lần 4 vào 17 giờ 30 phút hàng, thức ăn được rải đều khắp mặt ao.
- Lượng thức ăn cho ăn mỗi cự được trích 2 - 3% chia đều vào 2 nhá thức ăn để kiểm soát lượng thức ăn, sau khi cho ăn từ 1,5 - 2 giờ tuỳ theo giai đoạn phát triển của tôm để kiểm tra mức độ sử dụng thức ăn của tôm.
- Trong quá trình nuôi, định kỳ 15 ngày/lần tiến hành kiểm tra tốc độ tăng trưởng, xác định tỷ lệ sống của tôm và căn cứ vào mức độ sử dụng thức ăn hàng ngày thông qua việc theo dõi sàng ăn để điều chỉnh chế độ cho ăn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của tôm đảm bảo cung cấp đầy đủ thức ăn cho tôm sinh trưởng phát triển, không để xảy ratinhf trạng dư thừa thức ăn làm ảnh hưởng đến chất lượng nước ao nuôi, hiệu quả kinh tế của vụ nuôi.
3.2. Chế độ quản lý, theo dõi tôm nuôi thương phẩm.
Trong thời gian thực hiện mô hình, thường xuyên theo dõi, cập nhập diễn biến của các yếu tố môi trường tại ao nuôi:
- Nhiệt độ nước trong quá trình thực hiện mô hình giao động trong khoảng từ 23 - 380C, nhiệt độ cao nhất là 37 - 38 0C xảy ra trong tháng 7 và đầu tháng 8/2021, thấp nhất là 230C do ảnh hưởng của không khí lạnh và áp thấp nhiệt đới nhưng vẫn nằm trong ngưỡng nhiệt độ thích hợp với sự phát triển của tôm càng xanh. Vào những ngày có biến động bất thường, thay đổi đột ngột, nắng gắt nhiệt độ nước lên cao trong các tháng mùa hè nên nhóm thực hiện đã sử dụng quạt nước vào các thời điểm nắng nóng trong ngày (10 - 15 giờ hàng ngày) tránh phân tầng nước cho ao nuôi vào buổi sáng sớm (4 - 7 giờ sáng), đặc biệt là những ngày trời oi bức, chuyển mùa để tránh bị thiếu oxy ảnh hưởng đến tôm.
- Ngoài sự biến động của yếu tố nhiệt độ thì các yếu tố về độ pH, DO, độ kiềm, NH3 cơ bản ổn định và đều nằm trong ngưỡng sinh trưởng phát triển của Tôm càng xanh trong suốt quá trình nuôi.
- Từ tháng nuôi thứ 2 trở đi định kỳ 15 ngày/lần tiến hành thay nước 30 - 40% lượng nước trong ao nhằm giúp môi trường nước ao nuôi trong sạch và kích thích tôm lột xác.
- Định kỳ một tháng/lần sử dụng vôi bột hòa nước tạt trên mặt ao nuôi với lượng 2 kg/100 m2 ao để ổn định chất lượng nước, tăng cường thêm hàm lượng canxi trong nước ao để ổn định pH, nâng độ kiềm nhằm phòng bệnh cho tôm nuôi và giúp tôm nhanh cứng vỏ sau khi lột xác, tăng cường khả năng lột xác, kích thích tôm phát triển.
- Định kỳ 15 ngày/lần sử dụng khoáng Stomi đánh vào ao với liều lượng 2 kg/100 m2 ao để tăng cường hàm lượng khoáng nhằm phòng bệnh và kích thích tôm lột xác, phát triển tốt nhất.
- Định kỳ 15 ngày/lần sử dụng vi sinh, chế phẩm sinh học để xử lý nguồn nước, đáy ao giúp môi trường ao nuôi luôn trong sạch, tạo điều kiện thuận lợi cho tôm nuôi sinh trưởng và phát triển tốt nhất.
- Thường xuyên kiểm tra hệ thống bờ, cống cấp thoát nước, chất lượng nước ao nuôi và diễn biến của tôm nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời.
4. Công tác phòng và trị bệnh cho tôm nuôi thương phẩm:
Để phòng bệnh cho tôm trong quá trình nuôi thương phẩm cần làm tốt công tác phòng bệnh chung nhằm hạn chế tôm nuôi bị bệnh. Do đó, nhóm thực hiện đã áp dụng các biện pháp phòng bệnh chung trong suốt quá trình nuôi cụ thể:
-  Cho tôm ăn đủ lượng, đảm bảo hàm lượng dinh dưỡng, đúng kích cỡ hạt phù hợp với giai đoạn phát triển của tôm, cho tôm đúng giờ. Thực hiện tốt công tác quản lý thức ăn nhằm tránh thừa, thiếu thức ăn gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi.
- Thực hiện tốt chế độ phòng bệnh cho tôm nuôi, thường xuyên sử dụng Vitamin C, khoáng trộn vào thức ăn cho tôm ăn hàng ngày để tăng sức đề kháng và giúp tôm tăng trưởng tốt.
- Định kỳ sử dụng thuốc phòng bệnh về gan, vi sinh đường ruột trộn vào thức ăn cho tôm ăn nhằm tăng sức đề kháng bệnh, kích thích tôm tiêu hoá, chuyển hoá thức ăn tốt nhất….
- Quản lý ao nuôi chặt chẽ, duy trì nguồn nước trong ao luôn trong sạch, từ tháng nuôi thứ 2 trở đi thay nước định kỳ đảm bảo môi trường nước trong ao luôn trong sạch, kích thích tôm lột xác trong quá trình nuôi.
- Định kỳ 15 ngày/lần bón vôi xử lý môi trường với lượng 2 kg/100 m2 vừa đảm bảo môi trường nước sạch vừa có tác dụng giúp tôm nuôi sau khi lột xác nhanh cứng vỏ, kích thích tôm lột xác.
- Định kỳ sử dụng vi sinh, chế phẩm sinh học, khoáng để xử lý môi trường nước, đáy ao nuôi đảm bảo môi trường nước luôn trong sạch và kích thích tôm lột xác giúp tôm tăng trưởng tốt.
Nhờ làm tốt công tác phòng bệnh nên trong quá trình nuôi tôm không có hiện tượng bị bệnh. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, trong tháng 10 do nước sông đóng, việc thay nước cho ao nuôi không thực hiện được nên tôm có hiện tượng bị đóng rong cụ thể:
- Hiện tượng tôm bị bệnh:
+ Nước ao nuôi tảo phát triển mạnh, nước đặc, chất lượng nước xấu. Sáng sớm tôm có hiện tượng bơi men bờ.
+ Tôm có hiện tượng giảm ăn, một số con trên thân có từng mảng đen bám ở nắp mang, trên thân có đóng rong nhưng mật độ còn thưa.
- Biện pháp chữa trị:
+ Tiến hành tháo bớt nước ao, bơm nước từ ao nuôi cá cấp bổ sung, thay bớt nước ao nuôi.
+ Sử dụng EM2 với liều lượng 15 lít/1.000 m2 tạt khắp ao nuôi để phân huỷ mùn bã hữa cơ, xử lý đáy ao, xử lý nước, đánh vào lúc 9 giờ sáng trong 3 ngày liên tục.
+ Sử dụng đồng sulphat (CuSO4) với lượng 300 g/1.000 m3 nước hoà nước tạt khắp mặt ao nuôi.
+ Tăng cường sử dụng khoáng, Vitamin C trộn vào thức ăn cho tôm ăn.
- Kết quả trị bệnh: Sau 5 ngày xử lý môi trường tôm hết bệnh, trở lại ăn bình thường, không có hiện tượng chết, hao hụt do phát hiện bệnh sớm và chữa trị kịp thời nên đã không gây ảnh hưởng lớn đến tôm nuôi.
5. Kết quả theo dõi tốc độ tăng trưởng và sử dụng thức ăn của tôm.
Trong quá trình thực hiện, định dùng chài thu mẫu tôm để định lượng tỷ lệ sống, kiểm tra tốc độ tăng trưởng, đánh giá mức độ phát triển của tôm từ đó xây dựng chế độ cho ăn, điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp theo từng giai đoạn phát triển của tôm, kết quả về tăng trưởng, tỷ lệ sống và sử dụng thức ăn của tôm được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Bảng theo dõi mức độ sử dụng thức ăn của Tôm nuôi.
Giai đoạn nuôi Số lượng tôm (con) Tỷ lệ sống (%) Khối lượng TB (g/con) Tổng khối lượng đàn
(kg)
Lượng thức ăn sử dụng (kg)
TA/ngày TA/giai đoạn
23 - 25/7 30.000 100     1,5 4,5
26 - 31/7 30.000 98     2 12
1 - 6/8 30.000 95     2,5 15
7 - 16/8 30.000 93     3 30
17 - 31/8 27.000 90 2.5 67,5 4,5 67,5
1 - 15/9 25.500 85 9.3 237 11 165
16 - 30/9 24.600 82 17.6 433 19 285
1 - 15/10 24.000 80 25.8 619 24,5 367,5
16 - 31/10 22.800 76 34.1 777,5 27 432
1 - 15/11 21.600 72 40.7 879 26 390
16 - 30/11 21.000 70 46.6 978,6 24,5 367,5
1 - 15/12 19.800 66 51.2 1.013,8 21 315
16 - 30/12 18.600 62 55.0 1.023 20 200
Tổng cộng         2.651

Qua số liệu bảng trên cho thấy:
- Tôm sinh trưởng và phát triển khá nhanh đặc biệt là thời gian nuôi đầu từ tháng 7 đến tháng 10, từ tháng 11 - 12/2021 do nhiệt độ nước xuống thấp, tôm bắt mồi kém, giảm ăn nên tốc độ tăng trưởng chậm hơn.
- Tỷ lệ sống của tôm đạt trung bình 62% , đây là tỷ lệ sống đạt khá cao trong nuôi tôm càng xanh siêu đực quy mô công nghiệp.
- Tỷ lệ cho ăn qua các giai đoạn khá phù hợp với thực tế từng giai đoạn phát triển của tôm. Tuy nhiên, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) của mô hình là 2.6, khá cao so với tiêu chí đề ra và so với một số mô hình nuôi ở phía Nam. Nguyên nhân, do ở Nghệ An các tháng cuối năm có nhiệt độ nước thấp, tôm sinh trưởng kém, việc quản lý thức ăn khá khó khăn do tôm ăn thất thường, tuỳ thuộc vào nhiệt độ nước hàng ngày.
6. Thu hoạch.
Sau thời gian nuôi hơn 5 tháng, tôm đạt kích cỡ thương phẩm và thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ nước xuống thấp, tôm giảm ăn, tôm không phát triển đơn vị đã tiến hành thu hoạch. Kết quả thu hoạch như sau:
- Phương pháp thu hoạch: Sử dụng lưới kéo thu toàn bộ ao, sau khi đã kéo thu cơ bản tiếnh hành hút ao để thu triệt để.
- Tôm sau khi thu đượccho vào bể nước sách, có sục khí và xả tràn nhẹ để duy trì cho tôm sống, tiến hành phân cỡ tôm đồng cỡ trước khi xuất bán.
Kết quả thu hoạch được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4: Kết quả thu hoạch tôm càng xanh thương phẩm
Thời gian nuôi Tỷ lệ sống (%) Kích cỡ tôm TB (g/con) Sản lượng thu hoạch (kg) Năng suất (tấn/ha/vụ) Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR)
156 62 55 1.023 5,1 2.6

Qua kết quả thu hoạch cho thấy: Tỷ lệ sống của tôm 62%, kích cỡ tôm thương phẩm trung bình 55 g/con, sản lượng đạt 1.023 kg, năng suất đạt 5,1 tấn/ha/vụ đáp ứng được yêu cầu về sản lượng theo kế hoạch đề ra. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) là 2.6, như vậy hệ số chuyển đổi thức ăn của mô hình cao hơn sơ với dự toán cũng như so với một số mô hình nuôi tại các tỉnh miền Nam.
7. Tổ chức Hội thảo đầu bờ.
Nhằm đánh giá hiệu quả và hướng đến nhân rộng mô hình nuôi trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Ngày 17/12/2021, Trung tâm giống thủy sản Nghệ An đã tổ chức cuộc Hội thảo đầu bờ trong thời gian 01 ngày cho 50 hộ dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Nghĩa Đàn
Tại Hội thảo các đại biểu tham dự đều đánh giá cao kết quả và tính khả thi trong việc nhân rộng mô hình, phong trào nuôi trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đồng thời, các đại biểu tham dự cũng có những đề xuất, kiến nghị như:
- Trung tâm cần sớm hoàn thiện quy trình kỹ thuật nuôi thương phẩm Tôm càng xanh siêu đực trong ao đất quy mô công nghiệp phù hợp với điều kiện Nghệ An để tập huấn, chuyển giao cho người dân  để triển khai nhân rộng mô hình trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Đơn vị cần nghiên cứu, đưa vào sản xuất giống Tôm càng xanh siêu đực để chủ động nguồn giống, đáp ứng đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, mùa vụ đề cung cấp cho phong trào nuôi nuôi. Hiện nay, nguồn Tôm giống được nhập từ miền Nam không chủ động, giá thành cao, không kiểm soát được chất lượng con giống nên rất khó khăn trong việc tiếp cận con giống đảm bảo chất lượng.
Các đại biểu nhận định, Tôm càng xanh siêu đực là một đối tượng có giá trị kinh tế, dễ tiêu thụ có thể nhân rộng phong trào nuôi trên địa bàn tỉnh Nghệ An và nhất trí cao với quy trình kỹ thuật do Trung tâm giống thủy sản Nghệ An dự thảo, xây dựng.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
- Mô hình nuôi thương phẩm tôm càng xanh siêu đực trong ao đất quy mô công nghiệp đã được Trung tâm giống thủy sản Nghệ An triển khai thực hiện nghiêm túc đúng nội dung, mục tiêu và tiến độ đề ra, áp dụng chặt chẽ quy trình kỹ thuật nuôi thương phẩm Cua đồng trong suốt quá trình nuôi.
- Thông qua việc thực hiện mô hình, các thông số kỹ thuật đạt được như: Tỷ lệ sống đạt 62%, kích cỡ thu hoạch đạt trung bình 55 g/con, sản lượng thu được 1.023 kg tôm thương phẩm đạt 90% kế hoạch sản lượng đề ra.
- Đã xây dựng, hoàn thiện được quy trình kỹ thuật nuôi thương phẩm Tôm càng xanh siêu đực trong ao đất quy mô công nghiệp phù hợp với điều kiện Nghệ An. Là cơ sở để tập huấn, chuyên giao kỹ thuật cho người dân để nhân rộng mô hình, phát triển phong trào nuôi thương phẩm tôm càng xanh siêu đực quy mô công nghiệp ở Nghệ An.
- Đơn vị đã tổ chức cuộc thành công 01 cuộc Hội thảo đầu bờ trong thời gian 01 ngày cho 50 hộ dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành…
Để nhân rộng phong trào nuôi, nâng cao hiệu quả  kinh tế trong nuôi thương phẩm Tôm càng xanh siêu đực tại Nghệ An cần có một số điều chỉnh về kỹ thuật như sau:
- Nên thả giống nuôi sớm vào tháng 3 - 5, thu hoạch tháng 10 - 11 để nuôi vào các tháng có nhiệt độ nước thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của tôm nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Nên sử dụng nguồn giống tôm càng xanh siêu đực để nuôi công nghiệp bởi tôm càng xanh đực có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và kích thước cơ thể, càng lớn hơn so với tôm cái nhằm đem lại năng suát, hiệu quả cao hơn.
- Thành công của mô hình đã bổ sung thêm một đối tượng nuôi nước ngọt có giá trị kinh tế, là tiền đề để nghiên cứu, sản xuất giống góp phần chủ động con giống cho phong trào nuôi thương phẩm phát triển trên địa bàn tỉnh Nghệ An./.

Tác giả bài viết: Th.S Trương Văn Toản - Trung tâm giống thủy sản Nghệ An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thăm dò ý kiến

Bạn muốn biết thông tin về sản phẩm tôm giống của trung tâm?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập43
  • Máy chủ tìm kiếm6
  • Khách viếng thăm37
  • Hôm nay13,149
  • Tháng hiện tại487,252
  • Tổng lượt truy cập7,335,062
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây