I - THÔNG TIN CHUNG
Quy trình kỹ thuật nuôi thương phẩm cá Nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) trong ao đất quy mô công nghiệp do Trung tâm giống thủy sản Nghệ An chủ trì biên soạn dựa trên kết quả thực hiện chuyên đề sự nghiệp: “Nghiên cứu, khảo nghiệm nuôi thương phẩm cá Nheo Mỹ (Ictalurus punctatus Rafinesque, 1818) trong ao đất quy mô công nghiệp tại Nghệ An”, được Trung tâm giống thủy sản Nghệ An chủ trì thực hiện năm 2024.
2. Đối tượng và phạm vi áp dụng.
2.1. Đối tượng áp dụng: Quy trình này quy định trình tự, nội dung và yêu cầu kỹ thuật nuôi thương phẩm cá Nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) trong ao đất quy mô công nghiệp.
2.2. Phạm vi áp dụng: Áp dụng cho các cơ sở, hộ dân nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3. Các yêu cầu kỹ thuật phải đạt được.
- Thời gian nuôi 9 – 10 tháng;
- Mật độ thả giống: 2 con/m2; Kích cỡ giống thả: 12-15cm;
- Thức ăn sử dụng: Thức ăn công nghiệp dùng cho cá nước ngọt;
- Tỷ lệ sống: 75 - 80%;
- Kích cỡ thu hoạch: 1.000 – 1.200 g/con; Năng suất: 15 - 17 tấn /ha
- FCR: 1.7
II - MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
1. Đặc điểm hình thái và phân bố.
Cá Nheo Mỹ (I. Punctatus) có thân thon dài, không vẩy, tia vây trên các vây là tia vây mềm ngoại trừ tia vây trên vây lưng và ngực. Vây mỡ nằm giữa vây lưng và vây đuôi không có chứa tia vây. Mắt cá nhỏ, miệng nằm phía trước có 4 đôi râu quanh miệng. Đuôi cá hình lưỡi mác, vây hậu môn hình vành khuyên (Ross, 2001). Vây hậu môn có 24 - 27 tia vây, vây lưng có 6 - 7 tia vây, vây ngực có 7 - 9 tia vây, vây bụng có 8 - 9 tia vây, có 13 - 18 lược mang (Ross, 2001). Cá nhỏ thường có màu ánh bạc và màu trắng hồng. Viền ngoài của vây lưng, vây mỡ, vây hậu môn và vây đuôi thường có màu đen. Cá giống khi đạt kích cỡ 6-7 cm bắt đầu xuất hiện chấm đen trên thân, các đốm này từ từ biết mất khi cá có tuổi đời lớn hơn 3 tuổi (Wellborn, 1988). Cá hương râu không màu, khi cá trưởng thành râu chuyển màu sáng bạc (Ross, 2001). Cá lớn có màu xanh đen dọc theo lưng, cá cái có màu sáng hơn cá đực. Đầu cá đực trưởng thành có màu xanh đen.
Cá Nheo Mỹ là loài cá bản địa của châu Mỹ, phân bố phía nam Canada và phía đông bắc Mỹ cũng như phía bắc của Mexico. Cá Nheo Mỹ có thể tìm thấy ở khắp lục địa châu Mỹ phía đông bờ biển Đại Tây Dương cũng như phần vùng núi phía tây (Wellborn, 1988). Ngày nay do sự di nhập, cá Nheo Mỹ đã có mặt ở trên 35 quốc gia trên thế giới (FAO, 2006). Cá Nheo Mỹ được giới thiệu đầu tiên tại Puerto Rico năm 1938, tiếp đó cá được đưa tới cộng hòa Dominican năm 1954, Bỉ và Anh năm 1968, Nigeria năm 1970, Hàn Quốc năm 1972, Philippines năm 1974, Trung Quốc năm 1984, Thái Lan năm 1989… (Eli, 2005). Tại Trung Quốc, sau khi di nhập cá Nheo Mỹ được nuôi trong ao cho ăn thức ăn chính là đậu tương kết quả cho thấy cá thể hiện sinh trưởng tốt. Hiện nay Trung Quốc là một trong những quốc gia có sản lượng cá Nheo Mỹ lớn trên thế giới (Cremer và ctv., 2001). Theo Eli (2007) hầu hết các nước nhập cá Nheo Mỹ về nuôi thì cá đều thích nghi tốt và phát triển thành một nghề sản xuất.
2. Đặc điểm sinh lý
Theo Glodek (1980); Starnes và Etnier (1993), cá Nheo Mỹ phân bố rộng trên các hồ tự nhiên, hồ chứa, các dòng suối nước sạch nơi có hàm lượng ôxy cao, có thể tìm thấy trên các suối có tốc độ dòng chảy chậm và nước phù sa, thường thấy cá ở cuối nguồn của các đập nước, cũng có thể tìm thấy cá trong các vùng nước nợ. Trong tự nhiên cá Nheo Mỹ hoạt động chủ yếu vào ban đêm. Ban ngày chúng thường sống trong khu vực nước sâu và các nơi tối có vật chú ẩn. Cá nhỏ thường tập trung ở nơi có lưu tốc dòng nước nhỏ và các khu vực có độ đục cao (Brown và ctv., 1970).
Cá Nheo Mỹ được biết đến bởi khả năng sống và chịu đựng trong môi trường bất lợi. Cá có thể sống trong biên độ dao động nhiệt độ lớn, cá giống và cá trưởng thành có thể sống trong môi trường nhiệt độ từ 0 - 40oC, trong biên độ nhiệt độ từ 8 - 35oC cá vẫn bắt mồi và sinh trưởng tốt (Cacho và ctv., 1991). Theo Buentello và ctv. (2000), nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển của cá Nheo Mỹ là 26 - 30oC. Nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ và sức khỏe cá, Bly và Clem (1991) cho rằng sự thay đổi nhanh của nhiệt độ có thể gây mất cân bằng hệ thống miễn dịch. Cụ thể khi nhiệt độ giảm từ 23 - 11oC trong vòng 24 giờ làm ức chế tế bào B và T trong 3 - 5 tuần. Wellborn (1988) cho rằng sinh trưởng và khả năng ăn của cá giảm khi nhiệt độ giảm thấp hơn nhiệt độ tối ưu (26 - 30oC).
Ôxy hòa tan là yếu tố quan trọng trong nuôi cá Nheo Mỹ. Ôxy hòa tan trong môi trường nuôi cá Nheo Mỹ phụ thuộc vào sự tương tác gữa các yếu tố như chế độ dinh dưỡng cho ăn, mật độ tảo, cỡ cá, mật độ cá cũng như nhiệt độ nước (Meyer, 1970). Theo nghiên cứu của Hargreaves và Kucuk (2001), nhiệt độ nước ảnh hưởng tới sự hòa tan của ôxy, nhiệt độ cao vào mùa hè làm tăng trao đổi chất của cá dẫn tới hàm lượng ôxy trong nước giảm. Với ấp trứng và ương nuôi cá hương cá giống hàm lượng ôxy cần thiết từ 4-5 mg/l, khi hàm lượng ôxy hòa tan giảm xuống 1,5-1,0 mg/l cá bỏ ăn (Hargreaves và Tucker, 2004). Nghiên cứu cho biết khi ôxy giảm xuống còn 2,5 mg/l, lượng tiêu thụ thức ăn của cá hương và cá giống giảm 6%; khi ôxy giảm xuống còn 1,5 mg/l lượng thức ăn giảm 45%. Steeby và Hargreaves (1999) theo dõi cá trong ao nuôi cá thương phẩm hàm lượng ôxy xuống tới 2,2 mg/l nhưng không ảnh hưởng đến hoạt động ăn của cá, tuy nhiên khi lượng ôxy hòa tan giảm còn 1 mg/l thì gây ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ thức ăn và làm giảm sinh trưởng của cá.
Có rất ít nghiên cứu về ảnh hưởng của pH lên sinh trưởng của cá Nheo Mỹ vì sự thay đổi của pH liên quan trực tiếp tới hàm lượng ammonia và CO2 trong môi trường ao nuôi, tuy nhiên pH thích hợp cho nuôi cá Nheo Mỹ dao động từ 6,5 đến 9,0. Thí nghiệm của Bergerhouse (1990) chứng minh cá Nheo Mỹ 19 ngày tuổi trong môi trường nước có pH 10,2 - 10,5 là nguyên nhân gây hiện tượng cá chết.
Cá Nheo Mỹ là loài thích nghi với biên độ dao động độ muối lớn, khả năng chịu độ muối của cá Nheo Mỹ thay đổi theo các giai đoạn phát triển của vòng đời (Allen và Vault, 1970). Trứng cá Nheo Mỹ có thể chịu được độ muối 16 ppt, cá bột mới nở có thể chịu được độ muối 8 ppt. Cá khi tiêu hết noãn hoàng khả năng chịu đựng độ muối tăng lên 9 - 10 ppt và 12 ppt. Cũng theo nghiên cứu này, sinh trưởng và tiêu thụ thức ăn của cá giống 42 - 148 ngày tuổi nuôi trong độ muối 5 ppt và cá nuôi trong nước ngọt là như nhau.
Khả năng chịu ammonia (NH3) của cá Nheo Mỹ liên quan mật thiết tới hàm lượng ôxy hòa tan trong môi trường nuôi (Popma và Guidice, 2000). Thí nghiệm được tiến hành trên cá Nheo Mỹ thương phẩm 500 - 600 g nuôi trong môi trường có nồng độ NH3 là 0,4 mg/l và lượng ôxy hòa tan 6 mg/l kết luận lượng ammonia không làm ảnh hưởng tới lượng thức ăn tiêu thụ của cá. Tuy nhiên lượng thức ăn tiêu thụ của cá giảm 68% khi môi trường nuôi có NH3 là 0,4 mg/l và hàm lượng ôxy hòa tan giảm xuống 2,3 mg/l. Theo Tucker và Robinson (1990) lượng ammonia hòa tan trong môi trường nuôi cá Nheo Mỹ không nên vượt quá 0,2 mg/l.
3. Tính ăn và sinh trưởng.
Cá Nheo Mỹ là loài ăn tạp, cá ăn cả thức ăn động vật và thực vật (Wellborn, 1988), tuy nhiên trong thành phần thức ăn của cá Nheo Mỹ cũng bao gồm cả các chất lắng đọng (Goldstein và Simon, 1999). Động vật không xương sống trong thành phần thức ăn của cá Nheo Mỹ gồm ấu trùng simuliids, caddisflies và giáp xác (Robinette và Knight, 1981; Weisburg và Janicki, 1990). Trong các sông lớn ở Mỹ, thành phần thức ăn chủ yếu của cá là ấu trùng côn trùng, giáp xác, cá và các động vật thân mềm (Weisburg và Janicki, 1990). Trong các hồ chứa cá ăn động vật phù du, daphnia, moina, các chất lắng đọng và cá (Mathur, 1971). Trên các dòng suối vào mùa lũ cá ăn giun đất, thậm chí chuột và xác động vật trên cạn (Robinette và Knight, 1981). Thời gian bắt mồi của cá tập trung vào buổi chiều tới nửa đêm trong biên độ nhiệt độ nước từ 10-34oC (Bailey và Harrison, 1945). Ấu trùng cá Nheo Mỹ ăn động vật phù du, cá bột các loài cá khác, hoạt động bắt mồi chủ yếu vào buổi sáng và buổi chiều (Armstrong và Brown, 1983). Ấu trùng các loại động vật thủy sinh là nguồn thức ăn chủ yếu của cá Nheo Mỹ có kích cỡ nhỏ hơn 102 mm (Bailey và Harrison, 1945). Cá Nheo Mỹ cỡ lớn hơn 102 mm bên cạnh ăn các loài động vật thủy sinh chúng ăn ấu trùng côn trùng và động vật trên cạn. Cá cỡ 279 - 381 mm ăn cùng loại thức ăn trên nhưng thành phần thức ăn có thêm cả cá và giáp xác cỡ lớn (Busbee, 1968).
Trong tự nhiên, sinh trưởng của cá Nheo Mỹ phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng trong mỗi thủy vực. Theo Carlander (1969), sô liệu theo dõi sinh trưởng về chiều dài của cá Nheo Mỹ 8 năm liên tục trong khu vực sông Tennessee lần lượt là: 86 - 163 mm, 170 - 239 mm, 206 - 290 mm, 241 - 333 mm, 269 - 366 mm, 295 - 404 mm, 325 - 427 mm, và 462 - 495 mm. Trong vùng hồ Mississippi sinh trưởng về chiều dài trung bình năm đầu của cá Nheo Mỹ là 72 - 102 mm, các năm tiếp theo trong 7 năm lần lượt là 132 - 189 mm, 203 - 272 mm, 266 - 341 mm, 304 - 370 mm, 353 mm và 425 mm. Appelget và Smith (1950) thống kê chiều dài xương sống của cá từ năm thứ nhất tới năm thứ 12 lần lượt là 75 mm, 161 mm, 231 mm, 299 mm, 361 mm, 423 mm, 488 mm, 536 mm, 620 mm, 676 mm, 658 mm và 709 mm. Cá Nheo Mỹ có thể sống đến 40 năm tuổi, khối lượng 26,3 kg và chiều dài 1300 mm (Glodek, 1980).
Trong sinh sản nhân tạo và nuôi cá Nheo Mỹ, vòng đời của cá có thể chia làm các giai đoạn khác nhau: Cá bột, cá hương, cá gống, cá thịt, và cá bố mẹ (Hunter và Dupree, 1984). Cá bột mới nở có chiều dài là 5,5-6,0 mm. Cá hương nuôi từ cá bột sau 40 ngày tuổi có thể đạt 50 mm. Sau 120 ngày tuổi cá có thể đạt chiều dài 230 mm. Để hoàn thành một chu kỳ nuôi cá Nheo Mỹ từ cá bột đến giai đoạn cá thương phẩm cần 18 tháng (Zimba và ctv., 2003).
PHẦN III – NỘI DUNG QUY KỸ THUẬT NUÔI TRƯƠNG PHẨM CÁ DIẾC
1. Chuẩn bị ao nuôi.
Diện tích ao nuôi: 1.000 - 2.000 m2, có độ sâu 1,5 – 1,8 m.
Cải tạo ao: Ao trước khi thả nuôi cần phải tát cạn, diệt tạp kỹ, vét bớt bùn đáy, bón vôi khử trùng 10 kg/100 m2 ao để diệt cá tạp và các vi khuẩn gây bệnh cho cá, cải tao nền đáy ao.
Phơi đáy ao 3 - 4 ngày nhằm khử trùng đáy ao và thoát các khí độc ở đáy ao.
Lắp đặt hệ thống quạt nước để đảo nước (hoặc máy thổi tạo ô xy), nhằm cung cấp thêm oxy hoà tan trong nước đảm bảo cho cá Nheo mỹ sinh trưởng và phát triển tốt nhất.
Lấy nước vào ao nhất thiết phải qua lưới lọc để ngăn chặn cá tạp, cá dữ xâm hại đến cá giống thả nuôi; Mức nước đạt 1,2 – 1,5m, sau 3 - 5 ngày thì tiến hành thả cá giống để nuôi nuôi thương phẩm.
2. Chọn và thả cá giống.
- Chọn giống: Chọn cá Nheo giống khỏe mạnh, đồng đều kích cỡ, hoạt động nhanh nhẹn, màu sắc tươi sáng, không bị xây xát, mất nhớt, không có dấu hiệu bệnh tật...
- Mật độ thả nuôi: 2 con/m2; Kích cỡ cá giống thả 12 - 15 cm/con.
- Thả giống vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Trước khi thả xuống ao nuôi được tắm cho cá trong dung dịch nước muối NaCl 2 - 3% trong thời gian 10 - 15 phút để sát trùng, phòng bệnh cho cá.
3. Chăm sóc và quản lý.
3.1. Thức ăn, khẩu phần cho ăn:
Nguồn thức ăn chất lượng là yếu tố quan trọng để mô hình nuôi cá Nheo Mỹ thành công. Để cá phát triển tốt nhất, cần cho ăn đúng, đủ định lượng theo kích cỡ kết hợp bổ sung đủ dinh dưỡng trong khẩu phần ăn.
Sử dụng thức ăn công nghiệp có hàm lượng Protein 35-40% để cho cá Nheo Mỹ ăn trong quá trình nuôi thương phẩm.
Khẩu phần ăn cho cá tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của cá để điều chỉnh sao cho phù hợp, vừa tránh lãng phí thức ăn, vừa không làm ô nhiễm môi trường ao nuôi. Hệ số chuyển đổi thức ăn của cá Nheo Mỹ (FCR) là: 1,7; Khẩu phần cho ăn giảm dần từ 7 - 2% trọng lượng cá trong ao, tùy theo từng giai đoạn phát triển của cá.
Cách cho cá ăn: Hàng ngày cho cá ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.
Để tăng cường khả năng đề kháng, phòng bệnh cho cá, hàng ngày bổ sung thêm Bio-Vitamin C 20% trộn vào thức ăn để cho cá ăn với lượng 3g/1 kg thức ăn trong suốt quá trình nuôi.
3.2. Chăm sóc cá và quản lý ao nuôi:
Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá trong ao nuôi để kịp thời phát hiện những biểu hiện bất thường như cá bơi lội yếu, nổi trên mặt nước, nằm lật bụng, xuất huyết…
Nguồn nước sử dụng luôn phải đảm bảo sạch sẽ, không bị nhiễm thuốc bảo vệ thực vật hay nước thải từ các nhà máy, khu công nghiệp. Thường xuyên kiểm tra, theo dõi chặt chẽ chất lượng nước ao nuôi, thay nước định kỳ theo tuần, tháng tùy vào mức độ nhiễm khuẩn của ao, mỗi lần thay khoảng 20 - 30% lượng nước nhằm đảm bảo môi trường ao nuôi luôn trong sạch. Mực nước luôn duy trì ổn định từ 1,5 - 1,8 m nhằm tránh sự biến động nhiệt độ.
Cá Nheo Mỹ là loài rất nhạy cảm với nguồn nước nuôi. Khi trời mưa, lượng nước trong ao hồ tăng lên làm thay đổi môi trường nuôi. Để hạn chế sự thay đổi này, khi thấy trời động mưa rải vôi bột xung quanh bờ ao. Sau mưa, kiểm tra lại pH và độ trong của nước. Nếu độ trong > 35 – 40 cm cần bón thêm vi sinh để gây lại màu nước.
Định kỳ hàng tháng sử dụng thuốc Osamet trộn vào thức ăn để cho cá ăn liên tục trong 5 ngày với tổng lượng thuốc sử dụng 0,3 kg/100 kg cá nuôi để phòng bệnh cho cá.
Định kỳ mỗi tháng 2 lần bổ sung Men vi sinh hỗ trợ đường ruột cho cá nuôi thương phẩm (3 - 10g/1 kg thức ăn), mỗi đợt cho ăn 3 - 5 ngày liên tục.
Định kỳ sử dụng EM xử lý nước ao nuôi 2 lần/tháng liều lượng 300g/1.000 m²/lần.
Thường xuyên kiểm tra hệ thống bờ ao, cống cấp, cống thoát đảm bảo ao không rò rỉ, gây thất thoát cá.
Định kỳ xử lý nước ao 2 lần/tháng bằng vôi bột hòa nước té khắp mặt ao, liều lượng 3kg/100m2 mặt ao.
Định kỳ mỗi tháng 2 lần diệt khuẩn môi trường nước ao bằng thuốc tím, liều lượng 2g/1m3 nước.
4. Phòng và trị bệnh cho cá.
Cá Nheo Mỹ ít khi bị nhiễm các bệnh vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng và vi bào tử (Meyer, 1970). Có nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng tới khả năng nhiễm bệnh của cá trong đó cần kể đến là sự tương tác giữa mầm bệnh, môi trường và ký chủ (Wedemeyer, 1996). Các yếu tố chính ảnh hưởng tới sức khỏe của cá như: Sự thay đổi bất thường của nhiệt độ, thiếu dinh dưỡng, nuôi cá với mật độ quá cao. Theo thống kê trong các trại sản xuất giống cá Nheo Mỹ, hàng năm khoảng 45% lượng cá giống bị chết do nhiễm bệnh trong đó 60% chết do vi khuẩn, 30% chết do ký sinh trùng, 9% do nấm và 1% do virus..
Bệnh do virus Ictalurid herpesvirus được miêu tả lần đầu tiên trên cá hương, cá giống và cá thương phẩm (Fijan, 1968; Buck, 1990), cá mắc bệnh có thể chết tới 40-90%. Đặc điểm hình thái của virus được mô tả bởi Wolf và Darlington (1971). Triệu trứng: Cá thường bị trướng bụng, lồi mắt, gan, thận và tuyến tiêu hóa của cá bị hoại tử. Hiện tại chưa có thuốc đặc trị cho bệnh này, việc quản lý bệnh hoàn toàn dựa vào vệ sinh cơ sở nuôi và quản lý nguồn nước (Gray và ctv., 1999; Thomas và ctv., 2006).
Bệnh gây ra do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri, Edwardsiella tarda, Aeromonas hydrophila, A sobria, Flavobacterium columnare. Dấu hiệu bệnh lý: Cá xuất hiện các vết loét màu đỏ, hoại tử trên miệng, mang, da. Điều trị cho cá bị bệnh có thể sử dụng oxytetracycline, sulfamethoxine hoặc ormetoprin cho cá ăn, tiêm hay tắm cho cá (Thomas và ctv., 2006). Bên cạnh việc sử dụng kháng sinh, hiện nay đã có vacxin phòng bệnh Edwardsiella ictaluri được nghiên cứu bởi
Shoemaker và ctv. (1997), vacxin phòng bệnh Flavobacterium columnare được nghiên cứu bởi
Shoemaker và ctv. (2005).
Bệnh nấm gây ra bởi Saprolegnia spp trên trứng, cá hương, cá giống gây thiệt hại lớn về kinh tế. Nấm phát triển đầu tiên thông qua bào tử xâm nhập vào trứng chết. Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ nước thấp 18 - 26°C. Bệnh lý: Trên vỏ trứng, da, mang cá xuất hiện các sợi bông mềm màu trắng, sau chuyển màu nâu và xanh. Trong ương ấp trứng, việc xử lý trứng có tác dụng phòng bệnh tốt, thường dụng formaline với lượng 100 ppm, có thể dùng Hydrogen peroxide với lượng 500 - 750 mg/l xử lý trứng trong 15 phút.
Bệnh gây ra do nguyên sinh động vật (protozoa): Bệnh trùng bánh xe, là bệnh phổ biến thường gặp trên cá ngoài tự nhiên và cá nuôi, tác nhân gây bệnh là Trichodina sp (Basson và Van As, 1994), bệnh ký sinh trên da, vây, và mang cá. Bệnh trùng bánh xe rất nguy hiểm có thể gây chết hàng loạt cá hương và cá giống vì khả năng sinh trưởng nhanh. Bệnh phát sinh có quan hệ với việc thiếu dinh dưỡng và ô nhiễm nguồn nước, được phát hiện trên cá Nheo Mỹ đầu tiên bởi Wellborn (1967). Loài T. heterodentata được xem là tác nhân chính trên cá Nheo Mỹ (Duncan, 1977). Bệnh đốm trắng, là bệnh nguy hiểm thường gây ra tỷ lệ chết cao trên cá hương, cá giống và cá bố mẹ cá Nheo Mỹ, bệnh do Ichthyophthirus sp gây ra (Paperna, 1972; Jessop, 1995). Chu kỳ vòng đời của bệnh thường kéo dài 3 - 4 ngày ở nhiệt độ nước từ 21 - 24oC, 2 - 3 tuần khi nhiệt độ nước 15oC (Lasee, 1995). Triệu trứng: Cá xuất hiện các đốm trắng trên thân, mang, vây. Cá mắc bệnh có xu hướng tập trung nơi có dòng nước chảy, sục khí. Xử lý bệnh bằng hóa chất đang tiến hành phổ biến và cho hiệu quả tốt. Bên cạnh đó, Matthews (2005) nghiên cứu vaccine phòng bệnh thành công góp phần vào công tác quản lý dịch bệnh có hiệu quả.
5. Thu hoạch sản phẩm.
- Sau thời gian nuôi 9 - 10 tháng, cá đạt kích cỡ thương phẩm thì tiến hành thu hoạch cá.
- Trước khi thu hoạch một tuần tiến hành kéo tổng thể cá để luyện ép và trước khi kéo lưới thu hoạch cho cá nhịn ăn trước 1 ngày để cá dẻo, đảm bảo quá trình vận chuyển không bị hao hụt, giữ được cá sống để có giá bán cao hơn.
- Khi thụ hoạch bố trí giai, bể để nhốt cá đảm bảo cá sống, tiền hành phân kích cỡ để tiêu thụ.
- Công việc thu hoạch cần tiến hành theo các bước như sau:
+ Chuẩn bị đầy đủ nhân lực và dụng cụ bắt cá: vợt, thùng chứa, sọt…
+ Phương tiện vận chuyển cá: thùng tôn hoặc bạt lót có nước sạch.
+ Rút cạn nước trong ao nuôi, dùng lưới kéo bắt bớt cá dần sau đó mới hút cạn nước trong ao để thu triệt để.
- Cách tiến hành thu hoạch và vận chuyển:
+ Chọn thời điểm bắt cá vào lúc sáng sớm hay chiều mát.
+ Nên bắt từng mẻ và thu gọn, vận chuyển nhanh vào thả trong bể chứa tạm trước khi vận chuyển đến nơi tiêu thụ.
+ Không chuyển cá với mật độ quá cao làm lớp cá bên dưới bị đè dẹp dễ bị ngộp và chết.
- Tốt nhất sau khi thu hoạch ta nên phân loại, vận chuyển cá đi tiêu thị ngay để đảm bảo cá sống thu được giá trị thương phẩm cao hơn, tránh để cá bị chết sẻ khó tiêu thụ, giá bán thấp./.